23
Ta ôm lòng quyết chết, cứ thế xông lên không chút do dự. Chỉ cầu báo thù, chẳng bận tâm hậu quả.
Năm Trường Khánh thứ ba mươi mốt, Hoàng đế ban xuống tội kỷ chiếu:
Trẫm tại vị hơn ba mươi năm, siêng năng chính sự, chưa từng dám lơ là.
Thuận theo dân tâm, gánh vác trọng trách thiên tử, miễn giảm thuế khóa, cứu trợ thiên tai, chăm lo
dân tình, bình định Bắc Địch.
Công lao của trẫm, tự xét đáng là một đời minh quân.
Nhưng trẫm lại vì tư tâm, khiến người trẫm yêu thương nhất đời phải chịu thống khổ mà chết.
Tội lỗi này, không thể tha thứ.
Nay trẫm tự xét mình có tội, nguyện thoái vị, truyền ngôi cho Thái tử.
Thái tử khoan hậu nhân từ, nên lấy trẫm làm gương, khắc chế tư dục, thương yêu thiên hạ, chăm lo
cho dân, lấy xã tắc làm trọng, an ủi lòng trẫm.
Cùng năm đó, Hoàng đế thoái vị, Thái tử kế ngôi.
Từ ấy về sau, Tiên đế sống một mình trong Minh Đức sơn trang ngoại thành kinh đô, tự giam mình trong
một góc đất nhỏ, không bước ra ngoài nửa bước.
Ta được Tân hoàng cho phép xóa tên khỏi ngọc điệp hoàng gia. Người phong ta làm huyện chủ, ban cho
núi Đạo Tích làm đất phong.
Ta rốt cuộc cũng có thể rời khỏi hoàng cung, rời khỏi Thượng Kinh, trở về nơi mà mẹ và cha từng sống.
Trước khi lên đường, ta vào cung từ biệt Tiên hoàng hậu, nay đã là Hoàng thái hậu.
Ta trả Lê Tuyết và Hải Đường lại cho bà. Bà vẫy tay, cho hai người lui ra.
Chúng ta ai cũng không nhắc tới chuyện xảy ra trong hội Đăng Cao hôm ấy. Chúng ta chỉ nói về mẹ.
Năm xưa, khi Thái hậu quản lý hậu cung, bà chưa từng bạc đãi mẹ và ta.
Tuy mẹ ta vị phần thấp, Hoàng đế hiếm khi ghé qua Thừa Trạch điện, nhìn vào chẳng khác gì một phế phi bị
bỏ quên, nhưng thật ra cuộc sống của chúng ta chưa từng quá khó khăn.
Những gì cần ban thưởng, Hoàng hậu chưa bao giờ thiếu sót.
Nhắc lại chuyện này, Hoàng hậu cười nhạt: “Bản cung chiếu cố mẹ con ngươi, chẳng qua là không muốn ép
mẹ ngươi phải cúi đầu khuất phục Hoàng đế. Bản cung có tư tâm, chẳng đáng để ngươi ghi nhớ.”
“Bản cung không thích mẹ ngươi.”
“Tiên hoàng vốn là minh quân, nhưng vì mẹ ngươi, ông ta trở thành một kẻ tầm thường, đánh mất lý trí,
không còn chút dáng vẻ quân vương.”
“Bản cung đem món nợ ấy tính lên đầu mẹ ngươi. Nhưng bổn cung cũng rất may mắn, vì dù thế nào đi nữa,
bản cung cũng chưa từng bị Tiên hoàng làm cho đánh mất chính mình.”
“Bản cung mạnh mẽ hơn ông ta.”
Từ biệt Thái hậu, ta đến thăm Tề Quý phi.
Sau khi Tiên hoàng giải tán hậu cung, những phi tần như Tề Quý phi có thể rời cung theo con trai mình. Bà
cũng sắp rời khỏi Mộc Thần cung.
Còn ta cũng sắp từ biệt Vệ Hoa điện, nơi đã sống hơn mười năm, lên đường tới núi Đạo Tích xa xôi.
Lần này e rằng là lần cuối cùng ta gặp bà.
Từ trước đến giờ, ta và Tề Quý phi không có gì để nói với nhau. Bà quen dùng thái độ lạnh nhạt đối xử với
ta, còn ta quen giữ im lặng trước mặt bà.
Chúng ta ngồi im lặng đối diện nhau, mỗi người uống một chén trà.
Thấy thời gian đã lâu, ta đứng dậy, nghiêm túc hành đại lễ ba lạy với bà: “Đa tạ mẫu phi những năm qua đã
chăm sóc, Trường Sinh xin cáo từ.”
Bà hỏi: “Bao giờ con đi?”
“Xe ngựa đã chuẩn bị sẵn, con đi ngay bây giờ.”
Bà nói: “Ồ… nhanh vậy sao…”
Ta đáp: “Mẫu phi bảo trọng, Trường Sinh đi đây.”
Bà hình như chưa kịp phản ứng, đến khi ta đi được một đoạn, bà mới gọi với theo: “Này!”
Ta dừng chân, quay lại hỏi bà: “Mẫu phi còn gì muốn dặn dò sao?”
Bà nói: “Con tuy từ công chúa bị giáng làm huyện chủ, nhưng… nhưng… Tam huynh của con là Trấn Bắc
Vương, con nhớ rõ chứ?”
Ta ngẩn người.
Nhìn thấy mắt bà đỏ hoe, lòng ta mềm lại, nhẹ nhàng cười với bà: “Con nhớ rồi, đa tạ mẫu phi.”
Bà nói: “Đi đi, đi đi.”
Ta lại bước thêm mấy bước, nghe bà gọi tiếp: “Này!”
Ta lại quay đầu.
Bà nói: “Bản cung về sau sẽ sống trong phủ Trấn Bắc Vương… Con, nếu có dịp trở lại kinh thành… chắc
tìm được đường đến phủ Trấn Bắc Vương chứ?”
Ta vốn không định quay lại Thượng Kinh nữa.
Nhưng bà cứ nhìn ta đầy mong đợi, ta không nỡ làm bà thất vọng, bèn đáp: “Con tìm được.”
Bà nhẹ giọng: “Thế thì tốt.”
“Mẫu phi, lần này con thật sự đi rồi.”
Bà bối rối trong giây lát, nhỏ giọng nói: “Ừ.”
Lần này, ta không quay đầu lại nữa. Bà đứng sau lưng ta, lớn tiếng gọi với theo: “Trường Sinh, nhớ về thăm
mẫu phi đấy!”
24
Ngoài cung, xe ngựa đã chất đầy hành lý của ta.
Tân đế lo liệu chu đáo, biết rõ đường đến núi Đạo Tích xa xôi, đặc biệt chuẩn bị một đội nhân mã hộ tống,
cùng hạ nhân, thị nữ đi theo chăm sóc.
Ta bước lên xe ngựa.
Trong xe đã có Tam hoàng tử ngồi đợi sẵn.
Hắn nói muốn tiễn ta một đoạn đường.
Hắn tiễn ta rất xa, mãi đến sau này, vẫn khăng khăng để Tề An ở lại bên ta.
Hắn nói: “Chuyến đi này núi cao đường xa, có Tề An bên cạnh, ta cũng yên lòng đôi chút.”
Ta từ chối không được, đành để Tề An đi theo.
Nửa tháng trời rong ruổi, cuối cùng cũng đến núi Đạo Tích. Thật sự an cư ổn định xong xuôi thì đã hơn nửa
năm sau.
Nửa năm này, thư từ kinh thành gửi tới, hết bức này đến bức khác, tất cả đều từ phủ Trấn Bắc Vương.
Những lá thư đó, ta chưa từng bóc ra, lần nào cũng đem nguyên phong thư bỏ vào lửa đốt sạch.
Ta biết, những hành động của mình đều lọt vào mắt của Tề An.
Nhưng ta không để tâm, thậm chí ta còn mong y đem tất cả những gì y chứng kiến, không thiếu một chữ mà
bẩm báo lại với chủ nhân của mình.
Ta không chắc y có làm vậy hay không, bởi vì những lá thư kia vẫn đều đặn gửi tới, chưa từng ngừng lại.
Sau đó, ta đưa Tề An một phong thư, bảo y mang về cho Trấn Bắc Vương.
Tề An kích động vô cùng, quỳ một chân xuống đất, lớn tiếng cam đoan: “Thuộc hạ nhất định sẽ chuyển tới!”
Câu nói ấy rất đỗi hùng hồn, mạnh mẽ.
Ta trầm mặc giây lát, rồi mới nói với y: “Sau khi chủ tử của ngươi đọc xong thư này, bất luận hỏi gì, ngươi
cứ trả lời ngài ấy: hôm nay trả lại Tề An, xin đừng phái người tới giám thị nữa.”
Tề An ngẩn ra một lát. Ánh mắt hưng phấn nhiệt huyết lúc nãy như ngọn lửa bị nước dội vào, lập tức tắt
ngấm, trở nên ảm đạm, u ám.
Y cúi thấp đầu, đáp nhỏ: “Thuộc hạ tuân lệnh.”
Tề An thúc ngựa đi rồi.
Trong phong thư kia chỉ vỏn vẹn một tờ giấy trắng.
Một người thông minh như Trấn Bắc Vương, chắc chắn hiểu rằng những lá thư chưa từng được mở ra kia,
đã chính là câu trả lời rõ ràng nhất của ta.
Hắn vốn không nên tiếp tục gửi thư tới nữa.
Ta nhìn bóng dáng Tề An càng lúc càng xa, càng lúc càng nhỏ.
Trời sắp vào đông rồi.
Trên núi Đạo Tích, hẳn là sắp đổ tuyết.
Gió thổi vào mặt, lạnh buốt vô cùng.
Trong lòng ta bỗng nhiên nhớ tới một hơi ấm nóng bỏng nào đó, khiến tim ta chợt run lên khe khẽ.
Trận tuyết này, không biết bao giờ mới rơi xuống đây?
Dựa vào những năm trước, tuyết ở Thượng Kinh bao giờ cũng đến muộn hơn núi Đạo Tích một chút.
Không biết khi Tề An trao phong thư ấy vào tay hắn, là trước khi tuyết rơi, hay sau khi tuyết đã rơi rồi?
Ta mong rằng sẽ là sau khi tuyết rơi.
Vì trước khi tuyết rơi, Thượng Kinh bao giờ cũng nổi gió.
Những cơn gió ấy, cứ âm âm u u, lọt vào tai như ai đó đang khóc nức nở.
Âm thanh ấy thật chẳng dễ nghe chút nào, nó chỉ khiến lòng người thêm tan nát mà thôi…
[HẾT]