39.
Tôi xin nghỉ phép, mang tro cốt của anh ấy trở về nước, chôn cất cạnh mẹ tôi.
Vì gia đình ruột thịt của anh không cần anh, tôi sẽ trở thành gia đình của anh.
Ngày hạ táng, tôi gặp lại Kỷ Thanh.
Anh ta gầy đi rất nhiều, gần như chỉ còn da bọc xương, tay cầm hai bó hoa cúc trắng.
Đặt hoa trước mộ của mẹ tôi và Kỷ Trừng, anh ta nói rằng mình đã hiểu rõ mọi chuyện.
Anh ta cho tôi xem một video xin lỗi trên mạng xã hội.
Đó là của Kiều Ninh.
Cô ấy xin lỗi tôi và những người từng bị cô ấy lừa dối.
Cô ấy thừa nhận mình chưa từng đi vòng quanh thế giới, mà luôn ở lại Bắc Kinh.
Vì cô ấy nghĩ rằng với hình tượng đó, Kỷ Thanh sẽ nhớ mãi không quên cô ấy.
Vậy nên mới dựng lên câu chuyện giả dối ấy.
Cô ấy cũng nói rằng, những lời lẽ khó nghe dành cho tôi là vì ghen tị khi tôi thật sự sắp kết hôn với Kỷ Thanh.
Xem xong video, Kỷ Thanh gọi điện cho Kiều Ninh ngay trước mặt tôi.
Giọng cô ấy đầy oán trách, nói:
“A Thanh, em đã xin lỗi theo lời anh rồi! Em bị chửi sắp chết rồi, anh phải tha thứ cho em chứ!”
“Anh cũng hứa sẽ kết hôn với em mà, có phải không?”
Kỷ Thanh lạnh nhạt trả lời:
“Không, tôi sẽ không kết hôn với cô. Cô lừa tôi, tôi cũng lừa cô, chúng ta không nợ gì nhau.”
“Bảo cô xin lỗi, chỉ vì cô đã làm tổn thương Nhiếp Lan.
“Từ giờ trở đi, chúng ta mãi mãi đừng gặp nhau nữa.”
Anh ta cúp máy, chặn liên lạc với cô ấy, rồi quay sang giải thích với tôi:
“Chuyện cái máy ảnh, xin lỗi em. Anh không biết đó là di vật của mẹ em.”
Tôi lắc đầu.
“Anh không cần xin lỗi, vì tôi sẽ không tha thứ cho anh.”
Tổn thương không thể vãn hồi đã xảy ra, một lời xin lỗi yếu ớt thì có ích gì?
Kỷ Thanh cúi mặt, buồn bã nói tiếp:
“Anh cũng xin lỗi anh trai mình…”
“Khi anh ấy mới đi, anh ấy đã liên lạc với anh nhiều lần, nhưng lần nào anh cũng trách mắng anh ấy…”
“Trong lòng anh biết, chuyện bố mẹ ép anh chia tay Kiều Ninh không phải lỗi của anh ấy, nhưng anh không có đủ dũng khí để thoát khỏi cái nhà đó, anh ghen tị với anh ấy.”
Anh ta ngẩn ngơ nhìn bia mộ của Kỷ Trừng.
“Nếu lúc đó anh không hèn nhát, nếu đã đi theo anh ấy…”
“Có phải anh cũng có thể gặp được em, ít nhất có thể cạnh tranh công bằng với anh ấy không?”
Tôi chỉ thản nhiên đáp:
“Trên đời không có thuốc hối hận, giả định cũng vô nghĩa.”
“Tôi yêu Kỷ Trừng, chỉ vậy mà thôi.”
Anh ấy đứng dậy, thở dài.
“Có lẽ sau này, anh sẽ làm bác sĩ không biên giới…”
“Anh muốn gần em hơn một chút, bù đắp phần nào những điều hối tiếc của bản thân.”
Tôi nhíu mày.
Ban đầu định nói “Tùy anh”, dù sao đó cũng là lựa chọn của anh ấy.
Nhưng chợt nhớ đến…
“Có người từng bảo, em trai anh ấy dường như không muốn làm bác sĩ.”
“Anh ấy quan tâm đến anh, mong anh suy nghĩ thật kỹ, rằng mình muốn trở thành người như thế nào.”
“Đừng để phải hối hận nữa.”
Kỷ Thanh sững sờ.
Dường như chìm vào ký ức ngày xưa, mắt đỏ hoe.
Tôi nhặt hai bó hoa cúc lên.
“Hai người họ đều không thích cúc trắng, sau này đừng mang đến nữa.”
Quăng lại bó hoa cho Kỷ Thanh, tôi quay người rời đi.
Chúng tôi giống như hai con thuyền nhỏ bị cuốn trôi trong dòng lũ.
Sau khi từng đồng hành trên dòng nước.
Mỗi người một ngã rẽ.
Cuối cùng cách biệt về hai đầu dòng sông.
40.
Khi bước ra khỏi nghĩa trang, tôi nhìn thấy một người không ngờ tới – bố tôi.
Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi cảm thấy cũng hợp lý.
Có lẽ Kỷ Thanh đã tìm đến ông, vì anh ấy biết đó là máy ảnh của mẹ tôi.
Nên ông cũng biết rằng tôi đã trở về.
Ông trông già hơn nhiều.
Lưng còng, run rẩy trong làn gió.
Ông dè dặt hỏi tôi:
“Con ăn gì chưa?”
Tôi không muốn vòng vo.
“Bố nói đi, tìm con có chuyện gì?”
Ông bất an vò nát đôi tay.
“Con có thể… về nhà một chuyến được không?”
“Mày lớn rồi, từ giờ đừng về nhà nữa.” “Chẳng phải con đã nghe lời bố, sống yên ổn bên ngoài sao? Sao giờ lại muốn con về nhà?”
“… Em gái con bị bệnh rồi, ung thư.”
Tôi sững người trong thoáng chốc.
“Bố đã không còn cách nào khác… Nhà cửa có gì bán được, bố đã bán hết rồi. Con là chị nó, có thể giúp nó được không?”
Khuôn mặt ông đầy vẻ đau khổ.
“Bố biết con trách bố, nhưng lúc đó, bố cũng đâu muốn đuổi con đi…
“Con là con gái của bố, sao bố có thể bỏ con được? Bố có nỗi khổ riêng!”
“Con biết.”
Ông ngỡ ngàng nhìn tôi.
Ngày nhận được giấy báo trúng tuyển đại học, tôi vui lắm.
Tôi cuối cùng cũng có thể tiếp nối giấc mơ của mẹ, học ngành báo chí, trở thành một phóng viên.
Tôi chạy về nhà, định báo tin vui cho bố.
Nhưng lại nghe ông và dì đang cãi nhau trong bếp.
“Thêm vài năm nữa, Văn Văn cũng sẽ vào đại học, nhà này làm sao đủ tiền nuôi nó!”
“Ông đã nuôi nó đến tuổi trưởng thành rồi! Thế là đủ nhân nghĩa lắm rồi!”
“Nhiếp Thế Văn! Ông nghĩ kỹ đi! Nhà này có nó thì không có tôi, có tôi thì không có nó!!”
Tôi rón rén khép lại cánh cửa, chạy ra ngoài ngồi một mình suốt buổi chiều.
Cả mùa hè, tôi sống trong lo sợ, chờ đợi đáp án không thể tránh khỏi.
Đến ngày nhập học, lòng tôi cuối cùng cũng được buông lỏng.
Và cũng khiến trái tim tôi vỡ nát hoàn toàn.
“Bố không muốn ngôi nhà mà mình khó khăn lắm mới xây dựng lại được sụp đổ một lần nữa, nên đã chọn hy sinh con.”
“Dù có không nỡ, bố vẫn đuổi con đi.”
Ông còn muốn nói gì đó, nhưng tôi ngắt lời.
“Con chưa bao giờ trách bố, con hiểu.”
“Chỉ là, nếu đứng ở góc độ của một đứa con, bố không phải là một người bố tồi, nhưng cũng không phải là một người bố tốt.”
Tôi lấy điện thoại, chuyển cho ông ba trăm nghìn tệ.
Những năm qua, ông đã chuyển tiền cho tôi lắt nhắt, tôi vẫn để đó, định khi nào có dịp sẽ trả lại.
“Số tiền bố cho con, con trả rồi.”
“Phần còn lại, coi như con trả ơn nuôi dưỡng của bố.”
“Về sau, đừng đến tìm con nữa.”
41.
Rời khỏi nhà hàng, tôi bỗng cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng.
Những gánh nặng đè nén trên trái tim dường như từng chút một tan biến.
Tôi rẽ bước, đến tiệm hoa nơi Kỷ Trừng từng mua hoa thiên đường cho mẹ tôi.
Chủ tiệm nhận ra tôi.
Nhưng trong tiệm giờ gần như trống trơn.
Cô ấy đang chuyển những chậu hoa trống lên một chiếc xe tải.
Tôi hỏi: “Cô định chuyển đi đâu vậy?”
Cô ấy mỉm cười: “Không mở tiệm nữa! Muốn thử làm gì đó khác.”
Tôi ngẩn người một lúc.
“Vậy cũng tốt.”
Cô ấy dùng số hoa còn lại trong tiệm, chuông trắng, dạ lan hương và nhành ô liu, để bó thành một bó tặng tôi.
“Chúc chúng ta đều có thể đón nhận những khởi đầu mới.”
Chúng tôi trao nhau một cái ôm, lưu luyến chia tay.
Trên đường về nhà.
Mây chiều như gấm, ánh hoàng hôn lấp lánh sắc vàng.
Tôi dừng lại một lúc để ngắm nhìn.
Bất chợt, nhận được điện thoại của giám đốc đài.
Giọng bên kia có chút gấp gáp.
“Tiểu Nhiếp, kỳ nghỉ của em có lẽ phải kết thúc sớm rồi.”
“Xảy ra chuyện gì vậy?”
Anh ấy gửi cho tôi một bài tin tức.
“Xung đột giữa Li-băng và Israel leo thang, nhiều vụ nổ bom xảy ra ở các khu vực tại Li-băng.”
“Đài nghĩ rằng em có kinh nghiệm hơn—”
Tôi ngắt lời anh.
“Em sẽ đi.”
Tôi kéo sợi dây chuyền từ cổ ra, để lộ chiếc thẻ khắc tên Kỷ Trừng.
Tôi nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đó.
Tôi biết, chúng tôi không bao giờ có một đáp án khác.
Bởi nơi khói lửa chiến tranh bốc lên.
Chính là nơi chúng tôi lao mình đến.
Chúng tôi luôn hy vọng rằng mọi người trên thế giới này.
Dù đang chìm trong bóng tối sâu thẳm đến đâu, vẫn có thể tìm thấy ánh sao soi đường.