Quảng cáo tại đây
Nhạ Bạch

Chương 8



Đó là tỳ nữ hồi môn của mẫu thân ta năm xưa—Tú Thanh.
Cái chết của người, đối với ta là một đả kích rất lớn.
Một thời gian dài, ta không sao chợp mắt.
Trong phòng chẳng đốt đèn, ta tóc tai bù xù, ngồi ngẩn ngơ bên mép giường, nhìn chằm chằm vào cây xà ngang trên mái.
Cứ nhìn mãi như thế, trời lại sáng.
Mẫu thân ta, dù có trăm điều không tốt, yếu đuối đến đáng giận, nhưng trong lòng bà, lúc nào cũng nghĩ cho
ta.
Bà là người dịu dàng biết bao, nói chuyện với ta luôn nhỏ nhẹ, ánh mắt đầy trìu mến.
Khi ta còn nhỏ, mỗi lần ta bệnh, bà luôn thức trắng đêm canh chừng không rời.
Bà áp trán vào trán ta, đau lòng đến nỗi rơi lệ không ngừng.
Những buổi trưa, bà bế ta ra sân phơi nắng, giọng nhẹ nhàng hát cho ta nghe khúc “Bái Nguyệt Đình”.
Khúc “Bái Nguyệt Đình” ai oán của Vương Thụy Lan.
Về sau, ta dần lớn lên, chẳng giống với cô con gái trong tưởng tượng của bà.
Tính ta cứng cỏi, ít nói, trong mắt chẳng có chút dịu dàng.
Ta biết, bà thực ra luôn có chút sợ ta.
Vì những chuyện xưa cũ, những điều nực cười của bà, mà đại cữu mẫu thường châm chọc trước mặt ta.
Đối diện với đứa con gái ngày càng trưởng thành, bà chẳng thể ngẩng đầu lên nổi.
Thật ra, ta chưa từng oán trách bà.
Bà là mẫu thân của ta.
Chỉ cần bà yêu ta, thì dù bà có trăm điều ngàn điều không tốt, ta cũng chẳng có tư cách trách bà.
Ta chỉ là, không thích dáng vẻ nhu nhược, khúm núm của bà mà thôi.
Khi chuyển đến trang trại, bà hái hoa bẻ liễu, từng làm một vòng hoa đội lên đầu ta.
Bà nói: “A Âm, từ nay về sau, ta sẽ cùng con sống những ngày tốt đẹp.”
Sau đó, bà vào bếp nấu cơm, ta tháo vòng hoa xuống, ném vào góc ruộng.
Ta sẽ không quên được, khi bà ra lấy củi, vô tình thấy vòng hoa bị ta vứt bỏ, vành mắt đỏ hoe, tay chân luống cuống.
Bà lau nước mắt rồi trở lại sân.
Ta muốn giải thích với bà, muốn nói rằng ta chỉ không thích cái vòng hoa đó, chứ không phải không thích bà.
Nhưng mỗi lần bà khóc, ta lại cảm thấy bực bội.
Ta nhíu mày, bỏ đi chỗ khác.
Giữa ta và mẫu thân, chung quy vẫn tồn tại một lớp ngăn cách.
Mãi đến khi bà chết, ta mới bắt đầu nhìn chằm chằm vào cây xà ngang kia, suy nghĩ không biết lúc ấy tâm trạng bà ra sao.
Chắc lại khóc, run rẩy trong sợ hãi, rồi mới đưa cổ vào sợi dây thừng.
Trước kia mỗi lần bà khóc thật phiền biết bao.
Đôi mắt đỏ hoe như thỏ con, luôn ngập ngừng muốn nói chuyện với ta: “A Âm, A Âm…”
Rốt cuộc bà muốn nói gì chứ?
Ồ, bà muốn nói rằng, “ta sai rồi.”
Ngày bà chết, trên chiếc bàn dùng để treo cổ, bà dùng máu viết ba chữ ấy—Ta sai rồi.
A Âm, ta sai rồi.
A Âm, con đừng giận nữa.
Ta sai rồi, con đừng giận nữa, được không…
Giữa đêm khuya, ta ngẩn người nhìn lên xà nhà, tự hỏi không biết cảm giác treo cổ sẽ như thế nào.
Vậy nên ta cũng lấy một sợi dây, trèo lên bàn, nhét đầu mình vào vòng thừng.
Sau đó nghiêng người về phía trước, để đôi chân lơ lửng trong không trung.
Ngạt thở, giãy giụa… cuối cùng được Hoè Hoa cứu xuống.
Từ sau khi bà chết, ta dường như đã sinh bệnh.
Mỗi khi trời tối, ta lại nhớ đến khúc Bái Nguyệt Đình mà bà từng hát.
Tại sao mãi đến khi bà chết rồi, ta mới hiểu được ý nghĩa của nó?
Thì ra bà lại ngưỡng mộ tiểu thư khuê các Vương Thụy Lan đến thế.
Ngưỡng mộ nàng dù trải qua bao gian truân, nhưng vẫn có cơ hội quyết định vận mệnh của mình.
Tham một đoạn ngắn vụn vặt, cung kính hiền lương cũng quyến luyến.
Tham một đường kiếm nhẹ nhàng, cương mãnh hào sảng gặp ác duyên.
Trái lương tâm, trên đầu có trời xanh chứng giám.


               
Mẹo: Bạn có thể sử dụng các phím trái, phải, A và D trên bàn phím để chuyển giữa các chương.                
 
×           Ad Banner